“It’s going to be okay. You’re going to be all right.”
“Tất cả rồi sẽ tốt đẹp. Bạn cũng sẽ ổn thôi.”
Through the slits in my eyelids I could vaguely see a small crowd of people hovering over and near me as I lay on the floor. But I distinctly heard those reassuring words. Against the bright overhead lights, there was the outline of a woman hovering over me, kneeling at my right side, taking my pulse. Her voice had the assurance of someone who knew about life and death. I decided she must know I was going to live. My anxious breathing evened out and the pain began to subside.
Qua những khe hở trên mí mắt tôi có thể mơ hồ nhìn thấy một đám đông nhỏ người vây xung quanh tôi khi tôi nằm trên sàn nhà. Nhưng tôi nghe rõ những lời trấn an đó. Qua những ánh đèn trên cao, có bóng dáng một người phụ nữ đến gần tôi, quỳ bên phải tôi, bắt mạch. Giọng nói của cô có sự chắn chắn của một người biết về sự sống và cái chết. Tôi quyết định cô ấy phải biết tôi sẽ sống. Hơi thở của tôi tắt dần và cơn đau bắt đầu dịu bớt.
When the EMTs arrived and began to check my vital signs, they determined it was prudent to transport me to the hospital. But as they were lifting me to the gurney, I weakly spoke a few words. I wanted to thank the woman who had held my hand and comforted me.
Khi các nhân viên cấp cứu đến và bắt đầu kiểm tra các dấu hiệu sự sống của tôi, họ xác định rằng việc đưa tôi đến bệnh viện là điều khôn ngoan. Nhưng khi họ đang nâng tôi lên chiếc cáng cứu thương, tôi yếu ớt nói vài lời. Tôi muốn cảm ơn người phụ nữ đã cầm tay và an ủi tôi.
They asked those who were nearby, but no one had seen her. Everyone had been watching me the whole time. No one had seen a woman next to me, talking to me, touching my arm.
Họ đã hỏi những người gần đó, nhưng không người nào nhìn thấy cô ấy. Mọi người đã quan sát tôi suốt thời gian đó. Không người nào nhìn thấy người phụ nữ kế bên tôi, nói chuyện với tôi và chạm vào cánh tay tôi.
They assured me that no one was there to thank. But I knew I heard her voice. I knew I felt a hand on my arm… fingers on my pulse.
Họ chắc chắn với tôi rằng không có ai ở đó để cảm ơn. Nhưng tôi biết rằng tôi đã nghe thấy tiếng của cô. Tôi biết tôi cảm nhận được một bàn tay trên cánh tay của tôi… bắt mạch cho tôi.
What most people want (but sometimes don’t even acknowledge) is to be understood… to have their feelings understood.
Những gì mà mọi người muốn (nhưng đôi khi họ không thừa nhận) đó là được thấu hiểu… để những cảm xúc của họ được thấu hiểu.
So how can we let our colleagues, our employees, our family, our church members, the customers we serve know that we understand? Sometimes we don’t understand because we haven’t taken the time to find out. Or they haven’t been willing or comfortable to share their feelings. Perhaps we haven’t provided the opportunity, the right atmosphere, the safe environment for sharing.
Vậy bằng cách nào chúng ta nói cho những người đồng nghiệp, những người nhân viên, gia đình, cộng đoàn, khách hàng chúng ta phục vụ biết rằng chúng ta thấu hiểu họ? Đôi khi chúng ta không hiểu bởi vì chúng ta không dành thời gian để tìm hiểu. Hoặc họ không sẵn lòng hoặc thoải mái để chia sẻ cảm giác của họ. Có thể chúng ta đã không cho họ cơ hội, bầu không khí thích hợp, môi trường an toàn để chia sẻ.
How can we, in a sense, have our finger on the pulse of our people?
Theo một ý nghĩa nào đó, làm thế nào chúng ta có thể chạm ngón tay vào nhịp đập của những người xung quanh?
Usually it’s just a simple conversation, one long enough to get below the surface of politeness. Ask for their opinion. Acknowledge their problems and issues, not just the ones that directly affect your relationship with them, but also those that may be affecting their outlook on that relationship.
Thông thường, nó chỉ là một cuộc trò chuyện đơn giản, đủ lâu để có thể vượt qua được sự khách sáo. Hỏi ý kiến của họ. Thừa nhận các vấn đề của họ, không chỉ những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ của bạn với họ, mà cả những vấn đề có thể ảnh hưởng đến quan điểm của họ về mối quan hệ đó.
It takes time… time to listen, ask questions, and learn.
Điều đó đòi hỏi thời gian… thời gian để lắng nghe, đặt câu hỏi, và học hỏi.
I know my Lord Jesus knows me. Like the old hymn proclaims, “He walks with me and He talks with me and He tells me I am His own.” He acknowledges me. He listens to me. He even lets me express my opinions, some of them even in anger. But He assures me in Psalm 139 that He really and truly knows all about me.
Tôi biết rằng Thiên Chúa của tôi biết tôi. Như trong câu thánh ca xưa, “Người đi cùng tôi, nói chuyện với tôi và Người nói với tôi rằng tôi thuộc về Người”. Ngài thừa nhận tôi, lắng nghe tôi và thậm chí cho phép tôi biểu lộ những cảm xúc cá nhân, một trong số đó thậm chí là sự tức giận. Người đã quả quyết trong Thánh Vịnh 139 rằng Người biết tất cả về tôi.
Our Lord knows we sometimes don’t see His perspective. We haven’t always taken the time to get to know Him below the surface of just being Almighty God. He tells us that He wants us to know Him deeply: “Be still and know that I am God!” (Psalm 46:10)
Thiên Chúa của chúng ta biết rằng đôi khi chúng ta không nhìn thấy quan điểm của Ngài. Chúng ta không phải lúc nào cũng dành thời gian để tìm hiểu về Thiên Chúa ngoài việc biết Ngài là Thiên Chúa toàn năng. Ngài nói với chúng ta rằng Ngài muốn chúng ta nhận biết Ngài một cách sâu sắc: “Hãy ở yên đó và biết rằng ta là Thiên Chúa của ngươi.” (Thánh Vịnh 46:10)
Do we really know God? Can we ever know Him fully? Of course not. As the psalmist says, “Such knowledge is too wonderful for me, too lofty for me to attain” (Psalm139:6).
Chúng ta có thật sự nhận biết Thiên Chúa không? Chúng ta có thể hiểu được Ngài một cách hoàn toàn? Dĩ nhiên không. Như Thánh vịnh đã nói, “Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm, quá cao vời con chẳng sao vươn tới” (Thánh Vịnh 139:6).
Do we really know God? Can we ever know Him fully? Of course not.
Chúng ta có thật sự nhận biết Thiên Chúa không? Chúng ta có thể hiểu được Ngài một cách hoàn toàn? Dĩ nhiên không.
But if we want to know Him more fully we need to do the same things that we should do with our colleagues, our friends, our employees, our family: Talk with Him; ask His opinion; listen and learn; acknowledge Him not only for His Almighty power but also for His love, mercy and grace.
Nhưng nếu chúng ta muốn biết Ngài đầy đủ hơn, chúng ta cần phải làm những điều tương tự mà chúng ta nên làm với đồng nghiệp, bạn bè, nhân viên, gia đình của chúng ta: Nói chuyện với Ngài; hỏi ý kiến của Ngài; lắng nghe và học hỏi; thừa nhận Ngài không chỉ vì sức mạnh toàn năng của Ngài mà còn vì tình yêu, lòng thương xót và ân sủng của Ngài.
And also ask Him for the wisdom, time, desire, and courage to truly know the people He has entrusted to us. The ones we should understand well enough to know how their pulse is beating.
Và hãy xin Ngài sự khôn ngoan, thời gian, khát khao, và lòng can đảm để có thể nhận biết một cách đầy đủ những con người mà Chúa đã trao phó cho chúng ta. Những người chúng ta cần biết rõ đến nỗi biết được mạch của họ đang đập như thế nào.
I still wonder about the person who took my pulse and talked to me. I know I heard her voice. I know I felt her fingers on my arm. I know she was sent by my Jesus to reassure me. Because He knew I needed to know, at that very moment, that I was in His loving care.
Tôi vẫn còn suy nghĩ về người mà đã bắt mạch và nói chuyện với tôi. Tôi biết là tôi đã nghe tiếng của cô ấy. Tôi biết tôi cảm nhận được những ngón tay của cô trên cánh tay của tôi. Tôi biết cô ấy được gửi đến bởi Chúa Giêsu để trấn an tôi. Bởi vì Ngài biết rằng tôi cần biết, ở thời điểm đấy, tôi đang nằm trong vòng tay yêu thương của Ngài.
And He still wants me to know, to be reassured, that I’m going to be okay. Because He knows me intimately and understands me. He has His finger on my pulse. And He has His finger on yours too!
Và Ngài vẫn muốn tôi biết rằng, chắc chắn rằng, tôi sẽ ổn. Bởi vì Ngài biết tôi một cách mật thiết và hiểu tôi. Ngài đặt tay lên mạch đập của tôi. Và Ngài cũng đặt tay trên mạch đập của bạn.
Maria Hanh Doan dịch
Tác giả:
Christine Vogelsang
Christine Vogelsang is a teacher, musician, pastor’s wife, and mother of three adult children. For almost forty years her family enjoyed the love of congregations in Tennessee, Arkansas, and Southern California. She has earned her master’s degree in education, taught at various schools (from kindergarten to college) and served as music director for twenty-five years at their last church.
While writing and speaking about the joy of being God’s child has always been a part of her life, it wasn’t until her weekly inspirational blogs (restoringthejoy.net) gained an international following that Christine decided to publish her first book. She has also written and produced three plays about people and events in the Gospels that bring these ancient stories to life.
Christine and her husband have retired from full time church work; however, her blog ministry continues to grow. She recently completed her Restoring the Joy: Leaving My Guilt at the Cross book series (available through Amazon) and is scheduling more speaking engagements that highlight her spiritual passion: joy without guilt!