Chữ Quốc ngữ có từ khi nào?

0
1553

Người Việt Nam sử dụng được chữ quốc ngữ sớm nhất ở thời điểm nào? Thật không dễ có đáp án chính xác cho câu hỏi có vẻ đơn giản này nếu không có những bản văn viết tay của hai người Việt được lưu lại đến ngày nay.

Đây được coi là những sản phẩm đầu tiên mà người Việt gieo trồng và thu hoạch được trên cánh đồng quốc ngữ vừa được khai mở…

Trang cuối lá thư của Igesico Văn Tín viết ngày 12-9-1659 bằng chữ quốc ngữ – Ảnh tư liệu

Hai bức thư

Trong bài viết “Một vài văn kiện bằng quốc âm tàng trữ ở Âu châu” đăng ở tập san Đại Học số 10, tháng 7-1959 tại Sài Gòn, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết về việc Viện bảo tàng dòng Tên ở La Mã (Ý) còn giữ được những tư liệu quan trọng. Đó là bức thư và tập lịch sử của Bentô Thiện gửi cho giáo sĩ G. Philippo de Marini đề ngày 25-10-1659 và bức thư của Igesico Văn Tín cũng gửi cho vị giáo sĩ này, đề ngày “mươy hay thánh chính D.C.J. ra đờy một nghìn sáu tram nam muoy chinh” (mười hai tháng chín Đức Chúa Jesus ra đời một nghìn sáu trăm năm mươi chín).

Trong sách Lịch sử chữ quốc ngữ (1620-1659), linh mục Đỗ Quang Chính, S.J. – người tiếp cận nhiều tư liệu gốc cho việc nghiên cứu sự hình thành chữ quốc ngữ ngay tại các bảo tàng và văn khố ở châu Âu – đã chép lại toàn văn các văn bản của Igesico Văn Tín và Bentô Thiện để người đọc có thể thấy chữ quốc ngữ ở thời khởi nguyên được viết thế nào.

Có thể nói những người học và sử dụng chữ quốc ngữ sớm nhất ở nước ta là những tân tòng – người mới theo đạo (Công giáo) – trẻ tuổi và ham học hỏi bởi họ gần gũi, tiếp xúc thường xuyên với các vị giáo sĩ truyền đạo vốn là những người đang sử dụng chữ quốc ngữ buổi đầu. Igesico Văn Tín và Bentô Thiện đều là tân tòng rồi dần trở thành thầy giảng (đạo). Bức thư của Igesico Văn Tín được viết ở vùng Kẻ Vó (Đàng Ngoài/tức miền Bắc). Còn bức thư của Bentô Thiện được viết tại Kẻ Chợ (tức Thăng Long, cũng thuộc Đàng Ngoài).

Bức thư của Igesico Văn Tín gồm hai trang, trang đầu viết trong khổ 17x25cm, có 27 dòng chữ cỡ trung bình, trang hai trong khổ 16x9cm có 11 dòng. Thư của Bentô Thiện cũng gồm hai trang, cỡ chữ nhỏ, viết trong khổ 21x31cm. Cả hai bức thư đều là những lời thăm hỏi, kể về tình hình của những tân tòng, công việc truyền đạo trong vùng cũng như bày tỏ lòng tôn kính, nhớ mong của họ với giáo sĩ Marini.

 

“Ơn đức Chúa Blờy blả’ caõ cho thầi đờy đờy. Bấi nhieu mlờy tôy chép tháng mươy ĩ Igreja mà thư nầi thi ngài Lễ Bà Thánh Daria cũ õn Thánh Chrisanto tử vì đạo, tôy lại ơn thầi là cha vì thương đến con cũ tôy xin cha chớ quên làm chi. Từ Đức Chúa Jesu ra đờy cho đến rài một nghìn sáu trăm năm mươy chín năm. Bentô Thiên tôy tá nhà Thầi (Ơn đức Chúa Trời trả công cho thầy đời đời. Bấy nhiêu lời tôi chép tháng mười Igreja, mà thư này thì ngày lễ bà thánh Daria cùng ông thánh Chrisanto tử vì đạo. Tôi lạy ơn thầy là cha thì thương đến con cùng. Tôi xin cha chớ quên làm chi. Từ Đức Chúa Jêsu ra đời cho đến rày một nghìn sáu trăm năm mươi chín năm. Bentô Thiện tôi tá nhà thầy) – những câu cuối thư của Bentô Thiện. Và câu cuối thư của Igesico Văn Tín “D. C. Blờy blả’ cõn cho Thài đờy nài và đờy sau (Đức Chúa Trời trả công cho thầy đời này và đời sau). Cả hai cho thấy phần nào cách dùng từ, văn phong và cách viết quốc ngữ ở giai đoạn tiên khởi.

Bìa quyển Tự điển An Nam-Bồ Đào Nha-Latin của giáo sĩ Đắc Lộ được in ở La Mã năm 1651 – Ảnh tư liệu

Và tập lịch sử nước An Nam

Ngoài bức thư gửi giáo sĩ G. P. de Marini, thầy giảng Bentô Thiện còn viết một tập Lịch sử nước An Nam (LSNAN) gửi cho vị giáo sĩ này. (Tác giả Bentô Thiện không đặt tên cho tập tư liệu lịch sử của mình, nhưng căn cứ vào nội dung tập tư liệu của ông, linh mục Đỗ Quang Chính đã đặt tên là Lịch sử nước An Nam).

Qua lời trong thư của Bentô Thiện gửi giáo sĩ Marini, rõ là tập LSNAN được Bentô Thiện viết gửi cho giáo sĩ Marini theo đề xuất của vị giáo sĩ này. Căn cứ từ những dữ liệu xác tín, linh mục Đỗ Quang Chính khẳng định tập tư liệu này được Bentô Thiện viết ở khoảng đầu năm hoặc giữa năm 1659. Nhờ đích thân Bentô Thiện viết cho một tư liệu lịch sử, giáo sĩ Marini không chỉ nhắm đến năng lực chữ quốc ngữ mà còn ở vốn kiến thức của người thầy giảng mà giáo sĩ từng biết qua thời gian truyền đạo ở vùng Kẻ Vó.

Với sáu tờ giấy viết chữ cỡ nhỏ ở hai mặt, tức 12 trang, phần nhiều được viết trong khổ 20x29cm, có thể nói tập LSNAN là văn bản quốc ngữ “dài hơi” đầu tiên của người Việt được lưu lại. Nhận thức rằng đây là “công trình” có giá trị với người nước ngoài, mà cụ thể là với vị giáo sĩ mình yêu kính, Bentô Thiện đã viết thành hai bản để gửi đến giáo sĩ Marini qua hai chuyến tàu, mỗi chuyến tàu một bản, để phòng rủi bị thất lạc ở chuyến tàu này thì còn có bản gửi ở chuyến tàu kia. Bản gửi theo chuyến tàu thứ nhất được tác giả ghi ở đầu thư là 1a via, còn bản gửi theo chuyến tàu thứ hai được ghi là 2a via. Và may mắn cho bảo tàng chữ quốc ngữ, cả hai bản sử lược này đều đến tay giáo sĩ Marini, tất cả đều còn được lưu giữ trọn vẹn ở văn khố dòng Tên tại La Mã.

Chỉ với 12 trang viết, LSNAN được viết hết sức đại lược. Tuy vậy những sự kiện chính yếu diễn ra ở các triều đại đều được tác giả kể ra, cả các chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh, Trọng Thủy – Mỵ Châu, Thánh Gióng cũng được ghi lại với những tình tiết hấp dẫn. Ngoài phần lược sử các triều đại, cây bút “viết quốc sử bằng chữ quốc ngữ đầu tiên” này còn dành phần nói về văn hóa: phong tục tập quán, việc hành chính, địa lý, điểm qua một số chùa chiền, nhà thờ…

“Họ nhà Mạc thì trốn lên Cao Bằng hết, còn có ai ở đâu thì Chúa (tức Chúa Trịnh) lại bắt. Nước Annam đã an hết về làm một nhà Lê mà thôi. Còn ông Đoan là cha ông Thụy ở trong Hóa xưa, thì Chúa Tiên đòi ra ở làm tôi, mà ông ấy thấy chúa chẳng yêu đãi cho đủ bao nhiêu, thì ông ấy lại trốn vào ở Quảng, thì Đức Chúa ngờ là về Thanh Hóa; chẳng ngờ ông ấy đã vào Hóa, thì Đức Chúa theo. Song le chẳng theo kịp, thì lại trở ra Kẻ Chợ mà trị cho đến con cháu bây giờ. Rày lại đánh nhau cùng Kẻ Quảng. Song le chửa biết đời trị loạn, thì chửa có tra vào sách” (trích).

 

Trong thời hoàng kim của chữ Việt – quốc ngữ hôm nay, đọc hai bức thư của hai thầy giảng Igesico Văn Tín và Bentô Thiện, nhất là bản LSNAN, sẽ giúp chúng ta thấy được phần nào tiến trình cùng tài năng, công sức lao nhọc của những người dựng xây ngôi nhà quốc ngữ buổi đầu.

Hai sách quốc ngữ đầu tiên

Hai sách chữ quốc ngữ đầu tiên được xuất bản là Tự điển An Nam – Bồ Đào Nha – Latin và Phép giảng tám ngày. Được in và xuất bản tại La Mã năm 1651, Tự điển Việt-Bồ-La và Phép giảng tám ngày, theo linh mục Đỗ Quang Chính, được giáo sĩ Đắc Lộ viết ở Áo Môn khoảng từ năm 1637-1645.

Nhận thấy ý nghĩa và giá trị của hai quyển này, Tòa thánh La Mã đã cho phép Bộ Truyền giáo – vốn mới được thành lập từ giữa năm 1622 – in ấn và xuất bản ngay. In ấn sách chữ Việt lần đầu là một việc làm tốn nhiều công sức. Với các thanh điệu mới, cách ghép vần khác hẳn với chữ viết của các nước dùng mẫu tự Latin trong vùng vốn đã quen thuộc, để có thể in được chữ quốc ngữ, xưởng in của Bộ Truyền giáo đã phải đúc khuôn chữ in mới.

Với gần 500 trang, Tự điển Việt-Bồ-La, lúc đầu giáo sĩ Đắc Lộ chỉ soạn bằng hai loại chữ quốc ngữ và Bồ Đào Nha. Về sau, theo ý các vị bề trên ở La Mã, ông soạn thêm phần chữ Latin vào để tiện cho người Việt học tiếng Latin.

Phép giảng tám ngày – công trình về giảng dạy giáo lý – được Đắc Lộ viết bằng hai thứ chữ quốc ngữ – Latin. Theo nhà nghiên cứu Võ Long Tê dẫn theo linh mục Nguyễn Khắc Xuyên, quyển sách nổi danh về truyền dạy giáo lý này được Đắc Lộ biên soạn hay khởi thảo từ những năm 1627-1629.

Bài viết của hai tác giả Huỳnh Văn Mỹ – Bảo Trung (theo Báo Tuổi Trẻ)